Uốn ván là một bệnh cấp tính nặng, có khả năng gây tử vong do độc tố của vi khuẩn uốn ván (Clostridium tetani) gây ra đặc trưng bởi các cơn co giật trên nền tăng trương lực cơ.
Bệnh uốn ván có thể dự phòng được bằng vaccin và uốn ván sơ sinh có thể dự phòng được bằng tiêm ngừa cho bà mẹ trong thời gian mang thai.
Lịch sử bệnh uốn ván
Đặc điểm cấu tạo vi khuẩn Clostridium tetani
C. tetani nhạy cảm với nhiệt độ và không thể sống sót trong môi trường có ôxy. Ngược lại, các nha bào rất đề kháng với nhiệt độ và các chất sát khuẩn thông thường. Chúng có thể sống sót trong nồi hấp ở nhiệt độ 121°C trong 10 – 15 phút. Các nha bào cũng tương đối đề kháng với phenol và các hóa chất khác. Nha bào uốn ván được phân tán rộng rãi trong đất và hiện diện ở trong ruột và phân của nhiều loài động vật. Đất được bón phân chuồng có thể chứa rất nhiều nha bào. Các nha bào cũng có thể tìm thấy trên bề mặt da.
Hình 1. Hình dạng vi khuẩn C. tetani
Nguồn bệnh
C. tetani được tìm thấy chủ yếu trong đất, trong đường ruột và phân của nhiều loài động vật.
Phương thức lây truyền
Qua vết thương bị nhiễm; có thể là vết thương hở hoặc kín, lớn hoặc nhỏ. Bệnh uốn ván có thể xảy ra sau phẫu thuật chọn lọc, bỏng, vết thương kim đâm sâu, vết thương nghiền nát, viêm tai giữa, sâu răng, động vật cắn, sẩy thai, nạo phá thai và sinh con.
Phân bố bệnh
Bệnh uốn ván có ở khắp nơi trên thế giới, nhưng thường gặp nhất là ở những khu vực đông dân cư trong điều kiện khí hậu nóng ẩm.
Ước tính mỗi năm, trên thế giới có khoảng 213.000 - 293.000 ca tử vong do uốn ván.
C. tetani xâm nhập vào cơ thể qua vết thương. Ở các mô khỏe mạnh giàu ôxy, nha bào không nảy mầm được và bị tiêu diệt bởi đại thực bào. Trong điều kiện yếm khí, các nha bào nảy mầm để đưa vi khuẩn trở lại trạng thái sinh sản và nhân lên. Các độc tố được sản sinh và đi vào hệ thần kinh từ các cơ lân cận hoặc được phát tán đến các vị trí ở xa theo đường máu và bạch huyết. Các độc tố tác động ở nhiều vị trí khác nhau trong hệ thần kinh trung ương. Biểu hiện lâm sàng điển hình của uốn ván được hình thành khi độc tố uốn ván can thiệp vào sự phóng thích của các chất dẫn truyền thần kinh, ngăn chặn các xung động ức chế. Độc tố tác động như là một chất ức chế tiền synapse ở nhiều vị trí thần kinh, bao gồm các điểm nối thần kinh cơ. Điều này dẫn đến co cứng và co thắt cơ không đối kháng. Các nhóm cơ có đường đi của thần kinh ngắn nhất sẽ bị ảnh hưởng trước, vì vậy khít hàm và nuốt khó là những triệu chứng đầu tiên có thể thấy. Mất ức chế hệ thần kinh tự chủ cũng có thể xảy ra và dẫn đến các rối loạn giao cảm và phó giao cảm không thể kiểm soát. Độc tố uốn ván cũng có thể đi vào các tế bào thần kinh lân cận và lan truyền trong hệ thần kinh trung ương. Điều này dẫn đến các rối loạn thân nhiệt, hô hấp, tim mạch được thấy trong các trường hợp nặng.
Thời kỳ ủ bệnh
Tính từ khi có vết thương đến khi xuất hiện triệu chứng đầu tiên của bệnh uốn ván, thường là biểu hiện cứng hàm. Thời kỳ ủ bệnh có thể từ hai ngày đến hai tháng, hầu hết các trường hợp xảy ra trong vòng 8 ngày. Thời kỳ ủ bệnh càng ngắn (< 7 ngày) bệnh càng nặng.
Thời kỳ khởi phát
Tính từ lúc cứng hàm đến khi có cơn co giật đầu tiên hoặc cơn co thắt hầu họng - thanh quản đầu tiên, thường từ 1-7 ngày. Thời gian khởi phát càng ngắn (< 48 giờ) bệnh càng nặng.
Triệu chứng khởi đầu là cứng hàm: lúc đầu mỏi hàm, nói khó, nuốt vướng, khó nhai, khó há miệng tăng dần và liên tục. Khi dùng đè lưỡi ấn hàm xuống thì hàm càng cắn chặt hơn (dấu hiệu trismus). Dấu hiệu này gặp ở tất cả các người bệnh.
Co cứng các cơ khác:
Có thể gặp các biểu hiện khác như: bồn chồn, sốt cao, vã mồ hôi và nhịp tim nhanh.
Thời kỳ toàn phát
Từ khi có cơn co giật toàn thân hay cơn co thắt hầu họng - thanh quản đầu tiên đến khi bắt đầu thời kỳ lui bệnh, thường kéo dài từ 1 đến 3 tuần. Với các biểu hiện:
Rối loạn thần kinh thực vật gặp trong trường hợp nặng với các biểu hiện: da xanh tái, vã mồ hôi, tăng tiết đờm rãi, sốt cao 39 - 40oC hoặc hơn, tăng hoặc hạ huyết áp, huyết áp dao động không ổn định, loạn nhịp tim có thể ngừng tim.
Thời kỳ lui bệnh
Thời kỳ lui bệnh bắt đầu khi các cơn co giật toàn thân hay co thắt hầu họng - thanh quản bắt đầu thưa dần; tình trạng co cứng toàn thân còn kéo dài nhưng mức độ giảm dần; miệng từ từ há rộng; phản xạ nuốt dần trở lại.
Thời kỳ này kéo dài vài tuần đến hàng tháng tuỳ theo mức độ nặng của bệnh.
Đo nồng độ kháng thể đối với độc tố uốn ván trong máu.
Cấy vi trùng uốn ván tại vết thương và xác định độc lực của vi trùng. Tuy nhiên, kết quả thường có trễ và cấy âm tính cũng không loại được chẩn đoán.
Có thể thấy các bất thường liên quan đến tình trạng nhiễm trùng vết thương và các biến chứng của uốn ván.
Uốn ván toàn thể: có các biểu hiện lâm sàng điển hình qua 4 giai đoạn như mô tả ở trên.
Uốn ván cục bộ: hiếm gặp, biểu hiện bằng co cứng cơ, tăng trương lực và co giật cơ ở một chi hoặc một vùng cơ thể, thường tiến triển thành uốn ván toàn thể.
Uốn ván thể đầu: người bệnh có vết thương ở vùng đầu mặt cổ, cứng hàm, nói khó, nuốt vướng, co cứng cơ mặt, liệt dây thần kinh sọ số VII. Giai đoạn bệnh sau đó thường tiến triển thành uốn ván toàn thể.
Uốn ván sơ sinh: điển hình xảy ra ở trẻ 3 - 28 ngày tuổi (trung bình 8 ngày), thời gian ủ bệnh có thể từ 2 ngày đến hơn một tháng. Triệu chứng đầu tiên là bỏ bú, khóc nhỏ tiếng, sau đó, khít hàm, không bú được, cứng cơ toàn thân, và co giật.
Hô hấp
Tim mạch
Tiêu hóa: chướng bụng do giảm nhu động ruột, giảm hấp thu, táo bón. Loét và xuất huyết dạ dày do stress.
Nhiễm trùng: viêm phế quản, viêm phổi, nhiễm khuẩn vết mở khí quản, viêm nơi tiêm truyền tĩnh mạch, nhiễm trùng đường tiết niệu, nhiễm khuẩn huyết, viêm xoang, ...
Rối loạn thăng bằng nước và điện giải
Suy thận: khi có suy thận thường tiên lượng người bệnh rất nặng, nguy cơ tử vong cao.
Biến chứng khác: suy dinh dưỡng, cứng khớp, loét vùng tỳ đè, suy giảm tri giác do thiếu oxy kéo dài, đứt lưỡi do cắn phải, gãy răng.
Nguyên tắc điều trị: người bệnh uốn ván nên được điều trị tại khoa hồi sức tích cực.
Điều trị cụ thể
Ngăn chặn tạo độc tố uốn ván
Xử lý vết thương: mở rộng vết thương, cắt bỏ triệt để tổ chức hoại tử tại vết thương để loại bỏ nha bào uốn ván.
Kháng sinh diệt vi khuẩn uốn ván: metronidazol 500 mg, truyền TM cách 6 – 8 giờ/lần; hoặc penicillin G: 1 - 2 triệu đơn vị, tiêm TM cách 4 - 6 giờ/lần; erythromycin, penicillin V hoặc clindamycin là những thay thế của metronidazol và penicillin G; thời gian điều trị 7 - 10 ngày.
Trung hòa độc tố uốn ván
Globulin miễn dịch uốn ván từ người (HTIG) liều 3000 - 6000 đơn vị tiêm bắp, hoặc huyết thanh kháng độc tố uốn ván từ ngựa (SAT) 1500 đơn vị/01 ống, liều 400 - 500 đơn vị/kg cân nặng, liều duy nhất (người lớn thường dùng 14 ống) tiêm bắp. Dùng SAT phải thử phản ứng trước tiêm, test SAT với 75 đơn vị, với HTIG không cần thử test. Uốn ván sơ sinh dùng SAT 1000 đơn vị/kg cân nặng.
Kiểm soát co giật và co cứng cơ
Nguyên tắc:
Điều trị cụ thể:
Điều chỉnh rối loạn thần kinh thực vật
Điều trị hồi sức tích cực và các biện pháp hỗ trợ khác
Đảm bảo thông thoáng đường thở: hút đờm dãi, không ăn uống đường miệng để tránh sặc và co thắt thanh môn; mở khí quản: bảo vệ đường thở, hút đờm dãi và thông khí nhân tạo.
Dự phòng chủ động sau khi bị uốn ván
Miễn dịch sau khi mắc bệnh uốn ván không bền vững nên phải tiêm vaccin uốn ván (Anatoxin tetanus - AT): tiêm 3 mũi, mũi thứ hai cách mũi thứ nhất 01 tháng, mũi thứ ba cách mũi thứ hai từ 6 tháng đến 1 năm. Sau đó cách 5 - 10 năm tiêm nhắc lại 1 mũi.
Dự phòng thụ động sau khi bị thương
Cắt lọc sạch vết thương, rửa oxy già và thuốc sát trùng, dùng kháng sinh penicillin hay erythromycin, nếu chưa được chủng ngừa hay chủng ngừa không đầy đủ đối với bệnh uốn ván nên tiêm SAT 1500 đơn vị (1 - 2 ống tiêm bắp), tiêm vaccin uốn ván để có miễn dịch chủ động.
Vaccin uốn ván
Vaccin DTP (bạch hầu, uốn ván, ho gà) là vaccin lựa chọn hàng đầu cho trẻ em từ 6 tuần tuổi đến 6 năm tuổi. Lịch tiêm ban đầu là các liều vào các thời điểm 2, 4, 6 tháng tuổi, và thời điểm 15 – 18 tháng tuổi. Ba liều đầu cách nhau ít nhất 4 tuần, liều thứ tư cách liều thứ ba không dưới 6 tháng và không được tiêm trước 12 tháng tuổi. Nếu liều thứ tư được tiêm trước 4 tuổi, thì tiêm nhắc (liều thứ năm) lúc 4 – 6 tuổi. Nếu liều thứ tư được tiêm sau 4 tuổi thì liều thứ năm không cần thiết.
Đối với người từ 7 tuổi trở lên chưa được tiêm vaccin, Td là vaccin được lựa chọn. Lịch tiêm ban đầu là 3 liều, với hai liều đầu cách nhau ít nhất 4 tuần, và liều thứ ba được cho sau liều thứ hai từ 6 đến 12 tháng. Sau đó tiêm nhắc mỗi 10 năm.
Lịch tiêm ngừa uốn ván cho phụ nữ mang thai: mũi 1 càng sớm càng tốt khi có thai lần đầu hoặc tiêm ngừa cho nữ độ tuổi sinh sản (15-35 tuổi) ở vùng có nguy cơ cao; mũi 2 sau mũi 1 ít nhất 1 tháng; mũi 3 sau mũi 2 ít nhất 6 tháng hoặc ở lần có thai sau; mũi 4 sau mũi 3 ít nhất 1 năm hoặc trong kỳ có thai sau; mũi 5 sau mũi 4 ít nhất 1 năm hoặc trong kỳ có thai sau. Không có khoảng cách tối đa giữa các mũi tiêm uốn ván.
Hình 2. Lịch tiêm chủng vaccin phòng uốn ván cho phụ nữ mang thai
Một số công thức vaccin hiện đại có chứa thành phần uốn ván như các vaccin 6-trong-1 (Infanrix Hexa, Hexaxim), vaccin 5-trong-1 (Pentaxim, ComBe Five).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ths. Kim Ngọc Sơn
Ths. Nguyễn Dương Ngọc Thới